NỖI BUỒN CHIẾN TRANH



Đây là bài dự thi của mình và cũng là lần cuối mình tham gia với tư cách là sinh viên, hi vọng rằng cuộc thi nhận được nhiều ủng hộ từ HSSV

Trong nhật kí Nguyễn Văn Thạc có viết: “Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời”. Quả vậy, cuộc sống thật muôn màu, nhiêu con người là bấy nhiêu số phận, bấy nhiêu số phận là với bao nụ cười, bao nước mắt, bao đau thương, bao kỉ niệm và hồi ức. Và văn học sinh ra là bắt nguồn từ con người, và nhà văn chính là người gieo những con chữ, vương vấn ở đầu ngọn bút ấy là những tỉ mẩn, sự dũng cảm, lòng trắc ẩn thậm chí vấn vương nước mắt về một thời đại đã qua, về những gương mặt người. Và “Nỗi buồn chiến tranh” Bảo Ninh là câu chuyện như thế.

Điều đặc biệt tôi thấy thường những cuốn sách thường sẽ có gửi tặng một ai đó như một lời tri ân nhưng ở cuốn sách này mở đầu không có viết gửi ai cả, tôi nghĩ rằng tác giả muốn gửi đến tất cả mọi người. Tôi không muốn gọi là một cuốn sách nữa, tôi muốn nó như một thực thể sống oẳn mình chất chứa một kí ức về nhân loại đang thì thầm về câu chuyện một thời khói lửa đạn bom ấy đã qua, tôi muốn lời thì thầm ấy chạm đến mọi người và đặc biệt chạm đến những trái tim phập phồng nhịp đập của tuổi trẻ. “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh xuất bản lần đầu vào năm 1990, và số phận của nó cũng thật nhiều biến động thăng trầm, nhưng việc nó được dịch ra hơn hai chục thứ tiếng, được chạm chân đến các nước bạn, được in dấu văn chương trong lòng những người nhân dân khác trên thế giới là một điều xứng đáng. Một tác phẩm quảng đại là tác phẩm sẽ không chết, sẽ còn sống mãi, sẽ còn day dứt trong lòng người đọc thật nhiều câu hỏi, “mỗi dòng của cuốn tiểu thuyết tương đối ngắn này chất chứa vẻ đẹp thẩm mỹ và chiều sâu tinh thần. Cuốn sách tràn đầy những suy tư thấu suốt về Việt Nam cũng như tâm hồn con người. Đây là một trải nghiệm đọc không thể bỏ qua” (Leif A. Torkelsen).

Nhan đề của cuốn sách vỏn vẹn bốn chữ, không có chữ nào quá khó hiểu nhưng khi đọc thành lời, nhan đề ấy giống như bản lề thời gian cùng con lốc xoáy chầm chậm đưa người đọc đến thế giới xa xôi nào đó, đơn thuần cuốn sách là điều giết chóc?, hay đơn giản nó là một chuyện tình trái ngang?, hay cũng đơn giản như những cuốn sách đã đọc về một người u uất sau tàn cuộc. Không, cuốn sách không dừng ở đó bởi bề sâu của nó chắc chắn sẽ khiến bạn giật mình, sẽ khiến bạn nhói đau…

Mở đầu câu chuyện tác giả đưa ta đến không gian của núi no, rừng già nhưng nơi này lại “bị hòa bình bỏ hoang”, và Kiên đang trên con đường thu nhặt hài cốt tử sĩ, chính anh lại đang nằm cạnh những bộ hài cốt đó. Chiến tranh? Câu hỏi luôn thường trực trong tim tôi khi còn thơ bé rằng, những người lính đứng trước họng súng họ có sợ không và cái chết đến với họ sẽ như nào. Tôi từng nghe bà bình thản kể ông nội đi chiến đấu khi bà chưa được ba mươi, bà chỉ nói đi rồi không thấy về nữa, coi như đã mất rồi. Một số phận con người bỗng chốc nhẹ bẫng như thế trong lời kể đều đều của bà tôi…không một lời tả nào của nhà văn, chỉ đơn giản một câu “nước mưa rỉ xuống thong thả nhỏ rọt lên những bọc ni lông bao gói hài cốt tử sĩ xếp lát trên sàn xe”, cùng tiếng thở than buồn thảm từ sông núi cô quạnh gợi nhớ về quá khứ xa xôi vời vợi.

Và từ câu văn tưởng chừng nhẹ nhàng ấy, nhà văn bất chợt kéo người đọc đến với cảnh tiểu đoàn 27 xấu số, bị xóa sổ trong trận càn ấy. Chiến tranh không bỏ sót một ai, nó theo gót khi từ từ, khi dữ dội, khi vội vàng và nhẹ nhàng nhấc ai đó đi nhẹ tựa lông hồng. “Trên đầu trực thăng rà rạp ngọn cây và gần như thúc họng đại liên vào gáy từng người một mà bắn. Máu tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét” chẳng biết tiểu đoàn ấy có những ai, những người lính đến từ mảnh đất nào trên dải đất Việt này, không rõ “quê hương anh nước mặn đồng chua” hay “nghèo đất cày lên sỏi đá”, cũng không biết họ đang đi hành quân bộ hành ra sao, chỉ biết hơi thở thần chết hòa cùng dòng máu đỏ tươi ấy. Tôi lại nghĩ bài thơ của Chế Lan Viên trong tập thơ Điêu tàn rằng:

“Này chiếc sọ người kia, mi hỡi!

Dưới làn xương mỏng mảnh của đầu mi

Mi nhớ gì, tưởng gì trong đêm tối?

Mi trông mong ao ước những điều chi?

Mi nhớ đến cảnh pháp trường ghê rợn

Sọ muôn người lần lượt đuổi nhau rơi?

Hay mi nhớ những đêm mờ rùng rợn

Hồn mi bay trong đốm lửa ma trơi?”

 

Tôi tự hỏi thân thể đau đớn khi ngã xuống, khi tự tay bắn vào đầu mình của người đại đội trưởng tiểu đoàn 27 đã nghĩ gì, anh trông thấy gì, một chân trời tăm tối, hay sự bất lực khi lần lượt cứ từng người, từng người đồng đội một cứ liên tục ngã xuống, cứ liên tục đổ máu, bị chiếc súng vô hồn ấy nã vào da thịt, găm vào xương. Họ khi ngã xuống trước đấy có mong muốn điều gì, trong thân thể gầy gầy cũng bộ áo quân phục, cùng con súng vác trên vai họ đã kịp trăng trối điều gì không. Tôi lại cứ quẩn quanh mãi cái xe chở đầy hài cốt tử sĩ, những bộ xương người mục rữa ấy cũng từng là cơ thể sống, có lẽ cũng trải qua tuổi mười lăm, mười bảy, hăm hở với đời. Tôi từng đọc câu chuyện về một linh hồn trong Bản chất của người của Han Kang, về một linh hồn ra đi khi quá trẻ, nó đã tự hỏi rằng vì sao lại chết, nó muốn chạm đến các linh hồn khác, nó chứng kiến những thân xác bị đốt cháy, nó nhìn thấy thân xác mang màu áo bệnh viện, nó thấy những thân xác mặt trắng tưởng là sự sạch sẽ nhưng thực ra là lớp sơn ngặt nghèo giả dối che đi sự tàn ác man rợ. Những linh hồn vô định luẩn quẩn họ tự hỏi vì sao họ phải chết khi sự sống còn dài, đây là định mệnh an bài sao, sự sống họ được ban sao lại bị tước đi đau đớn và man dại đến mức mất xác như vậy. Ngọn lửa bùng cháy trên những cái xác như ngọn lửa của sự hủy diệt khiến người ta sợ hãi nhưng nó cũng là ngọn lửa sự sống nhen nhóm dai dẳng trong mỗi con người dù trả lại là sự kéo lê xác trên đường, những đòn hành hạ tra tấn thì họ vẫn muốn sống. Tôi – một người trẻ đang đọc về thế hệ cha anh mình đi trước đang hăm hở như thế nào, liệu chính tôi bước ra ở vùng đại ngàn hùng vĩ cũng rợn ngợp ấy sẽ ra sao, có thể mạnh mẽ không hay sẽ yếu đuối co quắp trong sự hèn nhát? Tiểu đoàn 27, cùng cái Truông Gọi hồn, một cái tên thật chua xót, mảnh đất đau thương ấy đã chứa bao xương thịt của các anh, mảnh đất mẹ đau đáu khi ôm xác những người con ngã xuống. “Dù vô khối hồn ma ra đời trong trận bại von ấy hiện vẫn đang lang thang khắp các xó xỉnh bụi bờ”, có lẽ họ còn vấn vương rất nhiều…

          Và đâu chỉ những hồn ma của những người lính đã ngã xuống đâu, thần Chết sờ soạng cả những người dân thường vô tội, một ngôi làng cũng bị xóa sạch. Kí ức của tôi về câu chuyện tiểu học bé thơ kể rằng có nhà 11 người chết hết chưa đến mấy phút, có em bé đang ngậm bầu sữa mẹ - mà người mẹ đã không còn hơi thở. Trong giây phút ấy tôi đã ngây thơ nghĩ, có khi nào quê hương tôi vốn là mảnh đất thẳng nhưng qua những đau thương nó oằn mình lại chống đỡ lấy, mạnh mẽ và kiên cường nên mới thành chữ S không? Hay là một con rồng mạnh mẽ, chống đỡ lấy những khắc nghiệt và nó vẫn hiên ngang. Chiến tranh không những đạn bom còn kéo theo bệnh tật, cùng đói khổ. Người lính săn phải con thú, ấy vậy nó lại là thân xác lõa lồ lở loét của một người đàn bà. Tôi đã nghĩ nhà văn phải là người dũng cảm, mới có thể viết ra những câu văn như vậy, nếu không cúi mình xuống nếm những vị mặn, vị đắng của đời, nếu không lắng nghe nỗi buồn của người thì làm sao có thể viết được ra như vậy, và không dễ gì để con người ta có chung nguồn cảm hứng với một cuốn sách khi màu da sắc tộc khác nhau. Như Maxin Mailen nói: Những cuộc chiến qua đi, những trang lịch sử của từng dân tộc được sang trang, các chiến tuyến có thể được dựng lên hay san bằng. Nhưng những tác phẩm đi xuyên qua mọi thời đại, mọi nền văn hóa hoặc ngôn ngữ cuối cùng vẫn nằm ở tính nhân bản của nó. Có thể màu sắc, quốc kì, ngôn ngữ hay màu da chúng ta khác nhau. Nhưng máu chúng ta đều có màu đỏ, nhịp tim đều giống nhau. Văn học cuối cùng là viết về trái tim con người. Nỗi buồn chiến tranh đã chạm chân đến nước bạn, chạm đến trái tim của nhiều người bởi nó viết về vấn đề nóng bỏng và có lẽ nhiều quốc gia đã đau thương trải qua – chiến tranh. Đã đến lúc, hãy nhìn kĩ lại xem, ngẫm lại xem chúng ta đã đi qua những trang sử mốc son chói lọi ấy như thế nào, nền độc lập – bức tưởng hòa bình vững chắc kia được xây dựng bởi gì – máu, xương, mất mát, hi sinh. Nếu khắc tên những người lính trên một bức tường có lẽ nó sẽ rất dài, có những người lính ngã xuống vô danh, có khi chưa kịp biết tên, “chân trời chết chóc mở ra mênh mang, vô tận những nấm mồ bộ đội mọc lên nhấp nhô tựa sóng cồn…”. Những anh hùng lặng thầm chôn xác ở đại ngàn núi non trong năm tháng chống giặc, dù tác phẩm bàn về chiến tranh chống Mỹ nhưng với bản thân tôi – một người trẻ dù giăc Mĩ hay giặc nào nhưng chiến tranh vẫn thật khốc liệt, đau đớn, bi thương mà cũng vô cùng hào hùng.

          Những trang sách mở đầu của Bảo Ninh vẫn chưa dừng lại, ông viết gì đó rất đời, rất người lính và rất thật, ấy là bộ bài ấy là thương nhớ, muốn có tình yêu trong quân doanh, và cả những cây hồng ma. Có thể ba thứ đó trụy lạc, nhưng cách tiếp cận của Bảo Ninh khác. Ấy là bộ bài, nhà văn không nói chơi nhiều ít mà nói về lời căn dặn, nếu ai đó trong đội chết, người ở lại cầm bộ bài đem đi mà đánh với đời…tưởng là lời trêu đùa, ấy vậy số trời trêu người, Kiên lại chứng kiến những người bạn đêm còn đang chơi bài với mình sảng khoái thì chỉ thời gian ngắn đã chết trong đám lửa hủy diệt, cháy rực, nóng bỏng. Và đã làm gì có những thứ có thể lưu giữ khoảnh khắc như bây giờ, và cái chết đến quá nhanh chưa kịp biết quá nhiều về nhau, chưa kịp nghe những câu chuyện thì cái chết đã vội vã không nhân từ lôi đi. Sau này cuối truyện, nhà văn cũng một lần nhắc đến bộ bài quăn queo trong đống giấy viết của Kiên, có thể nó thật không đàng hoàng nhưng những lá bài rách ấy đã từng in dấu tay của những người đã chết. Còn những bông hồng ma ma mị, như một thứ thuốc phiện, làm tê liệt đầu óc con người, làm con người ta mụ mị, có thể tự chế các ảo giác. Nhưng càng đọc thì những ảo giác đó xuất phát từ những mong muốn sâu thẳm trong tim những người lính, chỉ khi những cơn say đó đến họ mới có thể bộc bạch. Như Cừ “khuấy lên độc một cảnh tượng ủy mị khó tin của ngày trở về với những sum họp đoàn tụ”, ấy họ mong muốn sự đoàn tụ, họ không phải cỗ máy giết người đầy chết chóc. Nếu con người không tồn tại lòng trắc ẩn, khó có thể có những giọt nước mắt, sự cảm thông, tinh thần đoàn kết của những người lính. Tôi biết tồn tại những tàn dư như vậy là không đúng, nhưng tôi lại thấy xót xa hơn là ghét bỏ….bởi họ vì mái nhà độc lập, họ đã ra đi “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” đến đây từ bỏ những hoài bão bởi Sinh – bạn Kiên từng mong muốn làm nhà thơ như Lê Anh Xuân, bỏ những ham muốn vặt vặt, lặt vặt của đời.

Và cả câu chuyện với ba cô gái ở cánh rừng núi non này, chỉ thấy những bóng người lướt qua, Kiên biết tồn tại trong quân doanh những câu chuyện yêu đương là điều không nên có, không được có nhưng anh bằng sự cảm thông của mình lại cho qua, bởi con người ai cũng có mưu cầu có được tình yêu. “Chao ôi! chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khô và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới thảm sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người”. Có lẽ Kiên không muốn những người đồng đội mất đi cả những cảm xúc cơ bản của con người, đó là yêu,bởi chính anh không hoàn toàn có cơ may thoát khỏi sự hư hại của tâm hồn thì đồng đội anh vượt qua khỏi sự ràng buộc và câu thúc của thói thường để hưởng lấy những giọt cuối cùng còn sót lại của tình người. Để đến ngày mai thì chẳng còn gì, ngày mai trong chiến tranh thì ít khi nào đoán được….Nhưng rồi câu chuyện nhỏ nhoi ấy, xoàng xĩnh ấy rồi cũng đi đến cái kết; không một tiếng động, không một lời hồi đáp, ba cô gái đã chết khi chưa kịp lên tiếng, nhà văn không viết ba cô đã chết như thế nào chỉ viết hình ảnh chiếc áo lót trắng xõng xoài trên mắt đất, như một bông hoa lạ, in nguyên một vết bùn màu máu…cùng tiếng nấc kỳ quặc, rền rĩ, van vỉ, cầu khẩn bằng giọng thều thào nghẹt thở của Thịnh.

Và nó không dừng lại ở đó, khi ở nhà cũng có những bà mẹ bạc đầu nhớ thương con. Mang nặng đẻ đau một hình hài, như khúc ruột máu thịt của mình. Bà mẹ nào cũng đau đáu nhớ dáng hình của con, động lực để sống cũng mong chờ con chở về, như bức thơ mẹ Can gửi khi đau đớn nén lại vì người anh của Can đã mất, chỉ sống đến giờ vì còn Can nhưng trớ trêu làm sao khi Can cũng nằm lại trên đất lạnh quê người, chưa kịp về để mẹ vỗ về yêu thương. Như nhà mẹ Lành trên đồi Mơ xa xăm cũng kì lạ, vừa gần vừa quen ấy, người mẹ Lành ngã quỵ khi lần lượt những người con ra đi, hay Kiên thăm một người mẹ, người ấy rất đau nhưng lại cũng lại âu yếm bảo Kiên may quá, Kiên vẫn sống. Tôi từng đọc câu chuyện phong trào dân chủ trong cuốn chuyện “Bản chất của người” của Han Kang, cũng viết về hình ảnh người phụ nữ cà chân mình trên những mảnh thủy tinh rớm máu, bị những người máu lạnh chà đạp trên nền đất, và cả những cô gái xinh đẹp mặt bị đánh đến mất nhân dạng, chỉ còn lại da thịt trương phềnh. Có lẽ, người phụ nữ quốc gia nào cũng đẹp, qua trang văn Bảo Ninh, bằng một sự tự hào đến ngạo mạn, tôi thấy hiện lên trên con chữ của ông, người phụ nữ Việt thật đẹp, và rất đẹp hình ảnh Hòa – cô thanh niên xung phong bé nhỏ dám dẫn dụ được cả một đội Mỹ vấp váp để bảo vệ những người đang bị thương đến kiệt quệ. Nhà văn chỉ dừng lại đoạn những người lính đuổi theo được Hòa, nhưng đọng lại trong tôi sự tinh tế của nhà văn miêu tả đôi chân nhỏ bé, vóc dáng mảnh mai trong năng, người trầy xước vì gai nhọn sẽ mãi ở trong góc nhỏ trái tim người đọc.

Những người lính đã trải qua những năm tháng đau thương như thế, vào sinh ra tử, cứ người ngã xuống, họ lại thay những người ngã xuống hoàn thành nguyện vọng. Trong những năm tháng chiến đấu cam go khốc liệt, không phải tiếng súng đinh tai không phải rầm rập bắn mà là tình đồng đội, đồng chí đã nâng đỡ những bước chân người lính,  Tố Hữu từng kể về họ như thế này:

“Chúng tôi ngồi hàn huyên

Bao giờ vinh nhục

Bao nhiêu phút ưu phiền

Của đời người chiến sĩ

Đêm thâu kể triền miên:

"Có khi gạo hết tiền vơi

Ổi xanh hái xuống đành xơi no lòng

Có đêm gió bấc lạnh lùng

Áo quần rách nát lá dùng che thân

Khó khăn đau ốm muôn phần

Lấy đâu đủ thuốc mặc dần bệnh nguôi

Có phen chạy giặc tơi bời

Rừng sâu đói rét, không người hỏi han".

Và Bảo Ninh cũng không quên nhắc đến bệnh sốt rét rừng, căn bệnh này từng xuất hiện nhiều lần trong thi ca như:“Quân xanh màu lá dữ oai hùm” (Tây Tiến, Quang Dũng) hay: “Những khuôn mặt đã lên màu bệnh tật” nhưng Kiên cũng đã sống, đã sống sót bằng sự chở che của đồng đội. Vào chiến trường, anh đã ra sao, chiến tranh bào mòn anh những gì. Nhiều lúc anh đã thấy cuộc đời thuở thiếu thời cơ hồi đã tách khỏi anh, thực ra điều này không thể tránh khỏi, bởi đó là đánh đổi. Anh cũng từng nghĩ anh đón nhận cái chết bằng sự thản nhiên, anh chi rằng cái chết tầm thường và vô vị, anh thản nhiên nhìn nó với đôi chút ưu sầu. Thản nhiên là thế nhưng sau chiến tranh trở về, anh vẫn lay lắt sống đấy thôi, bởi trong anh sự sống đã chảy trong anh cũng một phần nhờ xương máu đồng đội, những người ngã xuống chắn những viên đạn xuyên vào da thịt nóng bỏng. Anh cũng từng chứng kiến Quảng, người đại đội trưởng bị hất tung lên, cầu xin anh được chết. Thân xác đã còn gì đâu khi da thịt đã lồ lộ, anh Quảng đâu phải yếu đuối, anh đã là người anh của Kiên cơ mà, nhưng anh đã xin chết bởi sự đau đớn ngấm vào da thịt kia ngoi ngóp bóp dần nốt sự sống và không thể kéo lại khỏi vực sâu tử thần đang bày ra, treo anh lên và trêu đùa đến chết. Tôi đã nghĩ lúc ấy sự sống trong Quảng còn rất nhiều, anh là đội trưởng cơ mà, anh còn nhiều trách nhiệm, anh còn dẫn dắt nhiều, “là anh của vạn nhà, là em của vạn kiếp phôi pha”.

          Và chiến tranh có phải đang giết chết sự nhân từ không? Đôi khi lương tâm thật đáng sợ, đã có lần Kiên đã nhân từ để rồi đổi lại là chính mạng sống người đồng đội, người ấy đã ngã xuống, tôi đã liên tưởng đến bài thơ Dáng đứng Việt Nam của nhà thơ Lê Anh Xuân:

“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt

Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng

Và Anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn

Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công”

Và có lẽ biết bao dánh hình hào hùng ấy ngã xuống cho nền độc lập, thật đẹp và tự hào những người lính ấy. Người đồng đội đã đánh đổi mạng sống để Kiên được sống, và chính điều đó là dư âm ám ảnh trong lòng Kiên sau này. Cũng trong chính câu chuyện lương tâm này, cũng có người lính nào đó không tên đã che chở cho thân xác một cô gái đã chết dù không phải quân mình bởi đơn thuần – đây là người con gái. Hay một người ám ảnh một đời, vì không kịp cứu một người ngụy nào đó vì cứ nghĩ viễn cảnh thê thảm của anh ta. Lương tâm đôi khi cũng thật đánh sợ, bởi nó luôn bóp lấy ta, khiến ta quằn quại nhất là khi ta day dứt, ứ nghẹn. Như Bielinxki từng nói: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”.

          Những người lính sống sót bước ra khỏi cuộc chiến như Kiên thì sao, dư âm chiến tranh trong họ là điều gì, có phải reo vui chiến thắng không. Bảo Ninh khai thác sâu hơn thế, ông viết về những mặt tối trong tâm trí họ. Như Vượng, sau chiến tranh anh đã hào hứng tìm việc nhưng trả lại anh là nỗi khiếp sợ, sợ những con đường quá êm vì sẽ nghĩ đến quá khứ lái chiếc xe tăng đầy chết chóc cà trên những xác người. Cuộc đời Kiên cũng ám ảnh về những người đồng đội, cuộc đời anh có kỳ thực có khác nào con thuyền bơi ngược dòng sông không ngừng bị đẩy lùi về dĩ vãng, không phải động lực sống của anh là hi vọng về tương lai tốt đẹp mà chính là những tấm thảm kịch quá khứ đã nâng đỡ anh, tạo sức mạnh cho anh thoát khỏi những vô tận những tấn trò đời. Chút lòng ham sống còn lại lại nhờ vào những hồi tưởng. Kiên sống song song, đồng thời trong hai cuộc sống: Thực và ảo, hiện tại và quá khứ, đan xen lẫn lộn không tách rời. Thực tại của Kiên mờ nhạt, không thể hòa nhập với mọi người. Thực tại gắn với khói thuốc, men say của rượu, sự ngột ngạt trong căn phòng khu tập thể, những đêm dài thao thức, những tiếng gọi vọng xa của quá khứ. Quá khứ diễn ra trong chính thực tại, chiếm lĩnh thực tại, chiếm lĩnh tâm trí của Kiên. Chiến tranh qua đi, lủa đạn đã lùi dần, nhưng trong Kiên lại là cuộc chiến khác, cuộc chiến tồn tại mỗi ngày, không phải miếng cơm manh áo ghì sát đất mà lại là cuộc chiến trong chính anh, những tiếng thét gào của quá khứ, cơ thể của anh có lẽ đã hứng lại, giữ lại đã ghi lai ngọn nguồn của cuộc chiến, là minh chứng cho những người đã chết.

Một bức tranh nhiều màu sắc sau khi rũ bỏ gam màu chỉ còn lại đen trắng người ta sẽ có nhiều liên tưởng, như con người khi rũ bỏ những hào nhoáng chỉ còn lại phần yếu đuối nhất, ta tự hỏi liệu sau những cái chết, những lúc chứng kiến cảnh chết chóc đau khổ kia, sau khi bị vùi dập kia bản chất con người liệu có yếu ớt? Kiên vẫn đang ngày ngày sống, mục đích sống của anh là gì, khi sau chiến tranh thân thể một người mười bảy tuổi đẹp đẽ lại thành một người u uất sau chiến tranh, anh đi lượm những hài cốt, anh cũng viết về họ. Ngòi bút của anh lại về chiến tranh, tâm khảm anh khôn nguôi về nó, bởi “không được quên, không được quên tất cả những gì đã xảy ra trong cuộc chiến tranh này, số phận chung của chúng ta, cả người sống lẫn người chết”.       

Và ở Kiên – trong cuốn sách này, cũng có hương vị của tình yêu. Tình yêu là gì? Ngọt ngào hay đắng cay, vui sướng hay đau khổ, nụ cười hay nước mắt. Nếu là đắng cay liệu chúng ta có chọn lựa nó, có để nó là con dao cắm sâu vào trái tim ta, thành vết thương mãi không. Tình yêu trong chiến tranh lại càng ngặt nghèo, nhà văn nhẹ nhàng phơi bày trước mặt người đọc trước và sau chiến tranh, tình yêu bị chia cắt ra sao. Thời gian cho tình yêu mặn nồng cùng những hoài bão tuổi trẻ choán lấy Kiên, Kiên chọn ra chiến trường – lý tưởng đẹp đang đợi mình. Kiên đã nghĩ mọi thứ - Phương, tình yêu của anh sẽ vẫn mãi còn, chiến tranh sẽ đến và sau đó họ vẫn có thể nắm tay nhau. Trước đó, Phương là cô gái ngây thơ, trong veo, tin tưởng những lựa chọn của Kiên, cô gái xinh đẹp nhưng trong lời dự đoán thức thời về cha Kiên, tình yêu hai người khó đến với nhau, không phải địa vị không phải do sự xứng đôi mà là thời đại chiến tranh này. Nó đã vô hình tách hai người ra khi sự hiểu lầm xuất hiện, khi trên con tàu định mệnh ấy, Phương lại bị hãm hiếp. Tiếng thét giận dữ, cùng ánh mắt đáng sợ của Kiên – phải chăng là bất lực, là sợ hãi bởi mới nay anh với cô còn đang nắm tay vậy mà chỉ sau vài giờ cô – xuất hiện trước mặt anh – người con gái anh yêu lại tang thương như vậy. Sự xấu hổ, nhục nhã cứ từ đó đào hố sâu ngăn cách giữa hai người để rồi dẫn đến những hiểu lầm và nuối tiếc. Và Phương vẫn là một trong những mục đích sống của anh, hai người vẫn còn liên kết, còn yêu, còn có thể hòa hợp nhưng vẫn không thể đến với nhau do vẫn còn hố đen ngăn cách từ ngày chiến tranh xa xôi. Và những người phụ nữ khác như Hạnh, cô gái làng chơi đã bước qua đời Kiên, đặc biệt cô gái câm đã chứng kiến, đã nghe những lời tâm sự từ sâu thẳm trong anh, là chứng nhân của đời Kiên, là người giữ lại những bút tích của anh, những trang giấy đem sự sống của anh, kí ức của anh và cả hồn anh trong đó. Nỗi buồn chiến tranh – nỗi buồn có lẽ của nhân loại, trầm mặc nhưng chầm chậm nhẹ nhàng như hơi thở, bám lấy da thịt con người, bám lấy dòng chảy của máu nóng…nó cứ ăn sâu dần con người ta như thế…

Và Kiên cũng nhận ra thiên chức cầm bút của mình – đó là viết về những người đồng đội bởi “nếu không có những người đồng đội thân yêu ruột thit, vô số và vô danh, những người lính thường, những liệt sĩ của lòng nhân, đã làm sáng danh đất nước này và đã làm nên vẻ đẹp tinh thần cho cuộc kháng chiến, thì đôi với Kiên, chiến tranh với bộ mặt gớm guốc của nó,với những móng vuốt của nó sẽ chỉ đơn thuần có nghĩa là một thời buổi và một quãng đời mà bất kỳ ai đã phải trải qua, đều mãi mãi bị ám ảnh, mãi mãi mất khả năng sống bình thường, mãi mãi không thể tự tha thứ cho mình”. Bản thân anh nếu không được đồng đội bằng tất cả tình thương cứu không phải anh chết vì giặc bắn, anh cũng tự giết mình bằng cách nào đó để thoát khỏi gánh nặng chém giết, gánh nặng bạo lực mà thân phận những người lính cõng lên đời đời kiếp kiếp. Như vậy Bảo Ninh đã cho ta thấy rằng, tình thương có thể cứu vớt một con người. Có lẽ trong thâm sâu Kiên từng gào lên với cuộc đời rằng, ai cho Kiên lương tri để sống khi ngày ngày thấy súng, khi ngày ngày thấy những người nằm lại, có người chết trong tay, có người chết trước mắt mà không làm gì được?. Nên bằng sự trầm mình sâu xa trong hồi tưởng, trong nỗi đau chiến tranh không bao giờ nguôi mà anh sẽ tồn tại đến trót đời với thiên chức là cây bút của những người đã hi sinh, là tiên tri những năm tháng qua đi, người báo trước thời quá khứ.

Có người đã hỏi tôi kí ức đẹp là như thế nào, liệu có phải sẽ toàn những niềm vui, những gì nhẹ nhàng không? Tôi nghĩ đẹp hay không là do mỗi người cảm nhận. Tôi biết rằng người ta cần sống cho hiện tại và tương lai, nhưng quá khứ là bước đệm, là một ánh trăng tròn soi tỏ những góc khuất trong mỗi chúng ta. Nhà thơ Nguyễn Duy trong bài thơ Ánh trăng từng viết:

Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng là bể

như là sông là rừng

 

Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình

Hay chính Tố Hữu từng viết: “Mình đi mình có nhớ mình”, kí ức là ánh trăng đẹp nhưng nó nhắc nhở ta mình từng là ai, con đường mình đi qua đã có những gì, đừng vội ngủ quên trên chiến thắng hão huyền. Chiến tranh – một mảng kí ức thấm đẫm máu, nước mắt và sự đau buồn nhưng nó nhắc nhở mỗi con người rằng, bầu trời xanh cao vời vợi không có máy bay thả bom trên không kia, những đồng cỏ ngát xanh không có sự cằn cỗi bom mìn là sự đánh đổi của cả một thế hệ trẻ của đất nước – sự đánh đối của xương máu. Họ là những con người “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai”, tuổi trẻ của họ đã đánh đổi cho nền độc lập của đất nước như vậy và chính chúng ta đang được sống sẽ sống ra sao. Chiến tranh – nỗi buồn của nhân loại, sẽ được ghi nhớ qua con chữ, qua những người dũng cảm sẵn sàng viết về nó không hề e sợ, những cuốn nhật ký như Anne Frank, Đặng Thùy Trâm sẽ là minh chứng hùng hồn của thời đại đó. Nếu không có những ngòi bút dũng cảm, ai sẽ họa những gương mặt bị hủy hoại của chiến tranh, ai dám dũng cảm họa những bức vẻ về những gương mặt lở loét; những gương mặt bị rừng thiêng nước độc ăn mòn để tưởng nhớ ghi những người kể hữu danh lẫn vô danh? Bởi: “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao)

Gấp lại trang sách của Bảo Ninh, tôi đã nghĩ bản thân sẽ dùng hiểu biết của mình, con chữ còn vụng về của mình như thế nào để viết, không phải là tấm danh hiệu danh giá cho danh lợi của mình, đó là viết để in những dấu huân chương ấy lên ngực những người bạn trẻ - mang dòng máu nóng để biết, tự hào, trân trọng sự sống này. Đừng hỏi đất nước đã làm gì cho ta mà hãy xem mình đã làm gì cho đất nước. Quá khứ dân tộc – trang lịch sử vàng dân tộc không thể quên, không được quên – cần luôn ghi nhớ trong tâm khảm, khắc cốt ghi tâm. Có thể nói Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, qua thời gian, vượt qua những chuẩn mực gắt gao đã đến với bạn đọc, tôi thấy rằng nó viết những gì rất thật, rất đời, và rất lính. Chính những câu chuyện như thế này, con người ta mới thực sự thấu hiểu thế nào là chiến tranh thực sự, nỗi đau, mất mát, đau thương, Sự thật trần trụi ấy giúp ta hiểu được sự quý giá của mạng sống, con người là vô giá và không thể định giá được. Bằng ngòi bút chân thật, đôi khi dửng dưng, cùng lối tả thực, hình ảnh chân thật đến nao lòng; cùng những câu văn mơ màng về cảnh đất rừng đại ngàn hùng vĩ đến choáng ngợp nhà văn đã họa ra một bức tranh toàn cảnh lớn về chiến tranh – vĩ đại mà cũng nhiều nét bi. Và hơn hết Bảo Ninh đa viết về bằng tất cả tình yêu, lòng thương người của mình “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng máu nóng của mình cho nhân loại” (Leptonxtoi).

Có thể nói, Nỗi buồn chiến tranh là một tác phẩm khiến cho con người ta kinh ngạc, vừa lạ vừa quen và nó sẽ vượt qua những băng hoại của thời gian, sống mãi trong lòng người đọc, là lời thì thầm của quá khứ, là lời nhắc nhở đặc biệt với những người trẻ.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

[2023] 18/35 - HẮT XÌ

[2023] 12/35 - THƯƠNG NHỚ MƯỜI HAI - TẢN MẠN

[2023] 8/35 - ĐẢO MỘNG MƠ