[2023] 54.3/35 - NGƯỜI THẦY ĐẦU TIÊN

Nhà văn luôn khiến những câu chuyện mở đầu đầy dịu êm và day dứt. Những câu văn luôn thấm đẫm chất thơ, tình yêu và hi vọng cho đến cuối cùng, thậm chí gấp sách này đặt tay lên lồng ngực, trong tâm trí ta vẫn vang vọng những thanh âm trong trẻo của núi rừng, của những con người bé nhỏ nơi ấy. Nếu Giamilla, tâm trí ta như được thỏa thuê say sưa ở núi rừng, những đám mây và bầu trời xanh cao vời vợi, hay với câu chuyện Cây phong non trùm khăn đỏ, hiện ra trước mắt ta là những con đèo hiểm trở, những con người say sưa lao động thì tại đây tầm nhìn của ta dường như thu nhỏ lại, in đậm trong tâm trí là hình ảnh hai cây phong. 


Câu chuyện bắt đầu với đoạn văn mộc mạc và dung dị thế này: “Làng Kurkurêu chúng tôi nằm ven chân núi, trên một cao nguyên rộng có những khe nước ào ào từ nhiều ngách đá đổ xuống. Phía dưới làng tôi là thung lũng Hoàng Thổ, là cánh thảo nguyên Karakh mênh mông nằm giữa các nhánh của rặng núi Đen và con đường sắt làm thành một cái thảm màu băng qua đồng bằng chạy tít đến chân trời phía tây.” Và từ khung cảnh đó tầm nhìn của ta thu bé dần lại mang đậm dấu ấn kí ức tuổi thơ: hình ảnh hai cây phong đung đưa trên ngọn đồi cao.

Hai cây phong, kí ức của tuổi thơ. Cây phong vẫn vậy, trụ vững trên ngọn đồi cao dường như là linh hồn của ngôi làng bé nhỏ, “chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, một tâm hồn chan chứa những lời ca êm dịu. Dù ta có tới đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau.” Có lẽ rằng thời gian cứ thế trôi đi ta chẳng thể sống lại những giây phút đã qua, nhưng có những thứ dường như vẫn vẹn nguyên gợi nhắc trong tim ta những kí ức của ngày đó, ngọt ngào và tươi đẹp, gợi lại trong ta những xúc cảm mãnh liệt, vượt qua những lo toan và toan tính. Hai cây phong qua con mắt của nhân vật tôi dường như giống một cố nhân, và qua nỗi niềm của một người xa xứ gặp lại cố nhân – chứng nhân lặng lẽ ấy, lại thêm những phát hiện. Thú thực, tôi thấy rất vui khi nhân vật tôi có những phát hiện mới, bởi phải yêu lắm người ta mới luôn tìm thấy những gì mới mẻ ở người ta yêu. Phải thương lắm, nhớ lắm và trân trọng lắm ta mới luôn thấy xúc cảm vẹn nguyên, không vơi cạn. Và rồi, xuôi theo chiều sâu của cảm xúc ấy, những kí ức tuổi thơ dần hiện ra, phóng tầm mắt từ ngọn đồi cao bao trọn trong không gian mênh mang và rộng lớn, có lẽ có những người sẽ thấy rợn ngợp và cô đơn, thế nhưng trong câu chuyện này, cái không gian mênh mang ấy là làng quê gần gũi qua con mắt của trẻ thơ và cái nhìn ấy vẫn vẹn nguyên. Đôi khi trên bước đường trưởng thành, ta trở nên gai góc và nhiều lúc ta mất đi sự trong trẻo và sự tích cực, hoặc đôi khi trên bước đường mỏi mệt, kí ức chính là một bến đỗ, một lựa chọn êm đềm để ta làm điểm tựa. Hai cây phong tựa một ánh trăng trong trẻo của tuổi trẻ “Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh…”

Cứ thế, cứ thể hai cây phong ấy tựa một người bạn lặng thầm hiền hòa và ấp ôm những mái đầu trẻ thơ, và ấp ôm những trái tim trưởng thành. Và rồi chính nó là nơi để tầm mắt phóng ra xa, để tâm hồn được rộng mở. Tuy nhiên dưới góc nhìn đầy trìu mến của nhân vật tôi, hai cây phong đứng trên ngọn đồi cao cũng có một nét kiên cường và bất khuất. Tự dưng lại nghĩ, thật giống nhưng con người của những năm tháng lao động ấy, đôn hậu bình dị, hòa mình vào nhịp chảy đổi mới, dám bước ra khỏi lối mòn, dám bảo vệ lẽ phải, dám đấu tranh, dần dà qua từng trang văn mềm mại uyển chuyển, ta sẽ bắt gặp con người ấy.

Hai cây phong, và ngôi trường. Trên ngọn đồi cao nơi có hai cây phong vẫn lặng thầm đứng vững qua thời gian, chứng kiến bao đứa trẻ lớn lên và trưởng thành, chứng kiến xuân qua, hè tới, thu về và đến đông chuyển mình qua những năm tháng. Có dòng sông lấp lánh ánh bạc vắt qua ngôi làng bé nhỏ thì cũng có một con sông vắt qua thời gian, vắt qua những năm tháng chiến tranh, vắt qua những năm tháng với những đổi mới về với ngôi làng, điển hình cho đổi mới chính là con chữ.  Có những thứ dường như chỉ tồn tại qua lời kể, chính là ngôi trường Đuysen. Có những thứ chẳng thể còn hiện hữu dường như xóa sổ vì thay đổi theo năm tháng, chỉ còn lại trong kí ức của những người còn sống. Nhưng có lẽ nào, nhà văn lại để nơi ấy chết trên trang sách, trên ngòi bút của mình. Một nơi in đậm kí ức như thế, một nơi tồn tại như một kì lạ trong mắt người đời của năm tháng ấy, một nơi đã từng có một lớp học đặc biệt như thế sẽ chẳng thể chết được. Nó sẽ sống lại, được gây dựng lại qua thước phim của hồi ức, và những xúc cảm mãnh liệt của một người nặng lòng đầy ân nghĩa. Và từ ngôi trường đặc biệt ấy, có dáng vẻ của người thầy đặc biệt theo một cách kể đặc biệt. Tôi luôn ghét những sự vòng vèo, nhưng tại trang sách của nhà văn, tôi lại thích sự chùng chình ấy, tôi thích những câu chuyện hiện ra từ lá thư, tôi thích cả một đoạn kí ức hiện ra từ bức tranh, tựa như rằng dưới những lá thư những bức tranh là cả một khoảng thời gian, thế giới đầy bí ẩn.

Người thầy đặc biệt – Đuysen, khi đọc đến người thầy này, theo kí ức của tôi lại nhớ về người thầy dạy văn đặc biệt trong mắt tôi, dáng vẻ ung dùng bàn chính trị kèm tẩu thuốc lá thơm dẫu trông có vẻ dửng dưng nhưng kì thực thầy luôn nặng lòng, và tôi lại nhớ dáng vẻ chắp tay đằng sau lưng nói rằng: Cố gắng sống thật tốt, đôi khi không phải lúc nào cũng có thể nhìn bằng con mắt tích cực và thơ ngây. Hay người người thầy dạy xác suất của tôi là bộ đội và thầy tự hào rằng thầy là một người bộ đội cụ Hồ, qua lời kể của thầy năm tháng của đất nước hiện ra như một thước phim tràn đầy cảm hứng qua giọng kể hào sảng của thầy. Đuysen – một đoàn viên Cômxômôn vào buổi đầu của Cách mạng tháng Mười đã quay lại quê hương – một vùng quê heo hút, hẻo lánh xứ núi để gieo lên những hạt mầm ánh sáng đầu tiên cho lớp trẻ. Nhưng để thay đổi nhận thức thì đó là một sự đấu tranh dai dẳng, nhất là thay đổi những tư tưởng đã ăn mòn tâm trí bao đời thâm căn cố đế, những người sống luẩn quẩn trong kiếp nghèo lao động miếng cơm manh áo họ chẳng thể nào giành chỗ để suy nghĩ về sự đổi thay cả. Bỗng dưng nhớ phiên tòa đặc biệt của người đàn bà hàng chài, với lo toan in hằn lên khuôn mặt, người đàn bà thất học nhưng lại có những lí lẽ để thức tỉnh đối với người cán bộ, sau phiên tòa rốt cục vẫn chưa có giải pháp cho người đàn bà ấy, và còn vô vàn những con người nữa, việc đấu tranh để thay đổi luôn lắt léo như thế. Soi chiếu lại câu chuyện này, những người không thể tìm thấy lí lẽ tích cực nào, cũng không muốn thay đổi cho những đứa con của họ đáng trách hay đáng thương, đáng trách rằng họ đã để những đứa trẻ buộc phải lớn buộc phải lăn lộn hoặc thậm chí được coi như món hàng, hay đáng thương bởi chính họ cũng là những người sống vắt vả lăn lộn và họ cũng chưa có cơ hội tiếp cận con chữ. Và tiếp tục vấn đề đặt ra rằng, ai sẽ ở đây, ai sẽ nhận một công việc dạy học đến danh xưng cũng nhiều người bàn tán và mỉa mai trong khi nó là một công việc thiêng liêng và cao cả, ai sẽ nhận một công việc có lẽ sẽ chẳng có đồng lương nào cả. Nhưng bằng tất cả sự nhiệt huyết, bằng tất cả vốn kiến thức ít ỏi thu lượm được cùng với giáo cụ là bức hình Lenin, lớp học ấy đã có, lớp học dù ngày hè oi ả hay ngày đông khủng khiếp, nó vẫn đã diễn ra. Cái lạnh chết người cứa mạnh vào da thịt, dường như không thể dập tắt được ngọn lửa của người thầy, ngọn lửa của những đứa trẻ. Cái lạnh của bão tuyết ấy dường như cứa vào lòng tôi một vết đau, bởi tôi cứ nơm nớp rằng lớp học ấy có vì thế mà tạm dừng, lớp học ấy có khi nào ai đó sẽ đến dẹp bỏ nó hay không, chẳng có một chi tiết lên gân nào nhưng tôi cứ hồi hộp như thế, cứ sợ như thế…

Người thầy nhỏ bé ấy, dù vốn kiến thức vỡ lòng nhưng đã là một người hùng thầm lặng cứu lấy những đứa trẻ, và điều đó rất rõ qua cô bé Antunai. Có lẽ Antunai sẽ sống rất bình thường như sự sắp đặt có vẻ nhẫn tâm của số phận nhưng cuộc đời cô bé đã thay đổi khi cô tiến dần hơn với con chữ, với tri thức. Để rồi từ một cô bé nhút nhát dường như chẳng có lấy nổi một ước mơ lại dám cả gan bảo vệ lớp học của mình, bảo vệ chính kiến để rồi có ước mơ và khát vọng, tình người đã cứu lấy cuộc đời của một người như thế: “hay từ thuở bé mọi ước nguyện, mọi ý muốn của tôi đều bị chôn vùi dưới những lời mắng chửi, những cái bạt tai của những con người phũ phàng, chỉ biết là tôi vẫn thấy muốn làm việc gì để cảm ơn con người thật ra không quen biết ấy, để đền đáp lại nụ cười đã sưởi ấm lòng tôi, đền đáp lòng tin cậy của người ấy đối với tôi, đền đáp mấy câu nói nhân từ ấy…”.

Cũng chính người thầy ấy, dù nhỏ bé và có thể thật cô độc, khi tử thần có lẽ đã chực vồ lấy con người ấy, đòn roi của bọn quý tộc – tượng trưng cho sự coi thường rẻ rúng người phụ nữ và trẻ em ấy sẽ thắng hay sự kiên cường xuất phát từ tình yêu vô bờ bến, trách nhiệm của một người thầy sẽ thắng. Có phút giây nào người ấy trở nên bất lực gục ngã không đứng dậy nổi và chịu thua vì bi kịch muốn mà không được, đau lòng xót thương những đứa trẻ hay không, có giây phút nào khi bị đánh ấy đã từng muốn buông xuôi phó mặc và từ bỏ lời hứa ban đầu hay không. Dường như ta không thể thấy giây phút ấy, ta chỉ thấy rằng bằng tất cả sức lực kiệt quệ dưới đòn tra tấn ấy, hình như còn có cả sức nặng của định kiến đè lên đôi vai người thầy hòng khiến thầy gục ngã, hòng rút cạn năng lượng sống, thì con người đó vẫn đứng dậy bước tiếp và đấu tranh. Nhưng cuộc đấu tranh cũng không phải lúc nào cũng thành công và dễ dàmh, khi Antunai bước qua tuổi 15 16 của mình là những ngày khủng khiếp sống cạnh một gã thô bạo, nhân chứng cho sự tàn ác ấy, hệ quả của sự bất nhân ấy là người đàn bà không cảm xúc, vô hồn trong túp lều ấy. Dường như, người đàn bà ấy đã chết hẳn sự thương cảm với đồng loại, và hơn hết mất hẳn đi xót thương chính mình và sự phản kháng.

Tấm lều tăm tối không có ánh sáng tựa như ngục thất tinh thần nhưng có lẽ niềm tin và khát khao được gây dựng từng chút một qua lớp học ấy, đã khiến cô bé vượt qua nỗi sợ, sự nhục nhã đau khổ ê chề nhơ nhớp và khốn khổ để cào lấy sự sống, tìm lối thoát cho chính mình. Hình ảnh người đàn bà được đánh thức khỏi miền quên lãng, sống dậy và rít lên ấy tuy đáng sợ nhưng điều đó cho thấy sự tỉnh táo đã về lại tâm trí đánh thức sự sống và sự phản kháng. Những trường đoạn tựa như dù không muốn viết nhưng vẫn viết ra trong nước mắt, tâm trí ta vẫn ám ảnh tiếng thét bất lực và bi thương của thầy Đuyxen khi không thể bảo vệ được Antunai thật khiến ta đau xót. Khung cảnh ấy đau lòng day dứt và ám ảnh, nhưng đó là hiện thực, đó mới là đời, để có được chính nghĩa, để có được sự khai sáng ấy, đã bao người đã hi sinh mồ hôi xương máu của mình, tuổi trẻ của họ chôn vùi cho những mầm non khác, tuổi trẻ của họ có lẽ nhiều nằm lại mảnh đất mẹ để cho những cây non cao mãi.

Hai cây phong, tuổi trẻ và hội ngộ. Hai cây phong đung đưa trong gió tồn tại với thời gian, trong kí ức một người nó là nơi chôn giấu kho báu tuổi thơ thì với một người khác, nó chôn giấu câu chuyện về cả một con người. Hai cây phong dường như vốn ban đầu là câu chuyện của riêng hai người sau đó thành câu chuyện của nhiều người, chỉ có điều năm tháng đã thay đổi, con chữ cũng đã đến mà người khai hoang cho mảnh đất tri thức lại cô độc. Con người chấp nhận là một người hùng lặng lẽ, không một dấu huân chương trên ngực, chỉ có hai cây phong cao lớn ấy là chứng nhân cho một cuộc cách mạng con chữ của người đó, là ân nghĩa sâu nặng trong lòng Antunai. Day dứt trong tâm trí tôi là cuộc tiễn biệt, với tiếng gọi khắc khoải Antunai như vỡ tung cả lồng ngực của thầy Đuysen, tiếng gọi chới với và khắc khoải ấy cứ reo mãi trong lòng, đủ khiến ta xúc động. Nơi sân ga, người ta mong ngày gặp gỡ, tiếng gọi ấy sao lại giống một lời tiễn biệt, một lời từ biệt của người thầy đến vậy, tiễn biệt chính mình, tiễn biệt người học trò đến với trí thức và con đường mới, trong tiếng gọi chấp chới ấy có khi nào cũng có ý nghĩa rằng Antunai đừng quên những năm tháng nơi đây, quên đi nơi em bắt đầu con chữ ra sao, và đừng quên đi người thầy này. Và rồi tại nơi sân ga, hai cây phong cùng chung một chỗ nhưng người thì rẽ hướng và hội ngộ không lời, không gặp mặt, một mối tình có lẽ chôn chặt tại khoảnh khắc ấy. Antunai đã có một tương lai tốt đẹp còn người thầy sống lặng lẽ, chiến tranh ra trận, thời bình làm người đưa thư, tựa như một người bị quên lãng. Một người xứng đáng được biết đến và trân trọng nhiều hơn thế, một con người mang dáng dấp của thời gian – cả một khoảng thời gian lịch sử, cả một nền cách mạng vĩ đại.

Có lẽ cái kết đã xoa dịu nỗi lòng ta được chút nào, khi nhân vật tôi lựa chọn có một bức tranh viết về câu chuyện ấy, dường như nghệ thuật là vậy, đó chính là bằng tất cả sự tinh tế, chân chính mà dựng lại một câu chuyện như thế, dựng lại về những con người vĩ đại năm ấy để những giá trị tốt đẹp ấy trường tồn với thời gian. Một câu chuyện buồn nhưng lộng lẫy, có niềm tin và có sự hy sinh, mang đầy hi vọng kết thúc ở đó tựa một bài ca với nốt ngân dài không dứt. Chẳng có một câu chữ nào về tình yêu bởi nó còn hơn thế, là tình yêu sự chân thành đã cứu lấy cả một đời người, cứu lấy tính người và vượt qua số phận. Tác phẩm mang một tầng nghĩa về những giá trị không thể bị khuất phục dù được đặt trong bối cảnh khắc nghiệt vô cùng.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

[2023] 18/35 - HẮT XÌ

[2023] 12/35 - THƯƠNG NHỚ MƯỜI HAI - TẢN MẠN

[2023] 8/35 - ĐẢO MỘNG MƠ